Đường Vinh Quang

Đường Vinh Quang

Trận đấu thứ hai gặp Ghana, tiền đạo kỳ cựu Miroslav Klose trở thành người giải cứu Đức với pha lập công gỡ hòa 2-2. Đây cũng là bàn thắng thứ 15 của Klose tại các kỳ World Cup, ngang bằng huyền thoại Ronaldo của Brazil. Trước đó, Ghana đã khiến Đức phải toát mồ hôi. Goetze mở tỷ số cho Đức nhưng đại diện châu Phi ghi hai bàn liên tiếp nhờ công Ayew và Gyan để dẫn ngược. Đây cũng là lần duy nhất Đức bị dẫn trước tại World Cup 2014.

Trận đấu thứ hai gặp Ghana, tiền đạo kỳ cựu Miroslav Klose trở thành người giải cứu Đức với pha lập công gỡ hòa 2-2. Đây cũng là bàn thắng thứ 15 của Klose tại các kỳ World Cup, ngang bằng huyền thoại Ronaldo của Brazil. Trước đó, Ghana đã khiến Đức phải toát mồ hôi. Goetze mở tỷ số cho Đức nhưng đại diện châu Phi ghi hai bàn liên tiếp nhờ công Ayew và Gyan để dẫn ngược. Đây cũng là lần duy nhất Đức bị dẫn trước tại World Cup 2014.

Bản đồ vị trí Công Ty TNHH Vinh Quang Ngô

Quảng Trị 1972 của Nguyễn Quang Vinh là một cuốn sách hấp dẫn từ đầu chí cuối.

Tác giả không phải là một nhà văn chuyên nghiệp. Anh là một chiến sĩ trực tiếp chiến đấu tại Thành cổ Quảng Trị năm 1972.

Mở đầu cuốn sách, tác giả viết:

“Tôi không phải nhà văn và viết cuốn sách này không để làm văn.

Nó chỉ là hồi ức của một người lính, kể về một đoạn đời ngắn nhưng đáng ghi nhớ nhất trong cuộc đời tôi ở Mặt trận Quảng Trị, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vô cùng ác liệt. Ở đó, cái sống và cái chết tranh chấp nhau từng giây một. Ở đó, trắng đen rõ rệt. Trần trụi sự thật. Trần trụi bản năng và mọi khía cạnh con người. Tất cả được phơi bày hết, phơi bày đến tận cùng cái tốt và cái xấu; dũng cảm và hèn nhát; nhân đạo và nhẫn tâm; cao cả và thấp hèn; có lý và phi lý… Cuốn sách được viết dựa trên những hồi ức của tôi và các đồng đội của tôi, đặc biệt là hai cuốn nhật ký của chính bản thân tôi, ghi lại chân thực nhiều chi tiết”.

Nguyễn Quang Vinh, sinh năm 1954 tại Hà Nội, nhập ngũ đầu năm 1972 khi còn là học sinh Trường phổ thông Công nghiệp Hai Bà Trưng, hăng hái ra trận với tâm hồn lãng mạn và tâm thế quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Trong nhật ký ra trận, anh viết: “Thế là đôi chân của tôi cũng đã in dấu trong rừng Trường Sơn, in dấu lên con đường lớn của dân tộc, và lòng tôi cứ ngân lên hai câu thơ của Tố Hữu: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.

Nhưng rồi thực tế chiến trường đã không chỉ có sự phơi phới. Anh là chiến sĩ rồi Tiểu đội trưởng Tiểu đội 4, Trung đội 2, Ðại đội 11, Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn 48, Trung đoàn Thép của Sư đoàn 320B tử thủ ở Thành cổ Quảng Trị và Mặt trận Cửa Việt. Ðường hành quân, chủ yếu đi bộ từ bắc vào nam đã được anh nhớ lại: “Cả lũ đi mò trong đêm. Tôi bị ngã vào vũng nước, ướt sạch, quai dép bị đứt, đành phải đi đất. Hình như bị lạc rồi, ánh hỏa châu chập chờn khắp nơi. Ðường bờ ruộng trơn như đổ mỡ, tôi nghiến răng dùng hết sức bấm ngón chân xuống đất mà vẫn ngã. Mỗi bước đi là một bước ngã. Súng ống đồ đạc quật oành oạch, quần áo bẩn thỉu như trâu vấy. Nhiều lúc mệt quá, tôi cứ chống hai tay ngồi phệt dưới bùn mà nuốt nước mắt: Cuộc đời chưa bao giờ bị cực khổ như thế này”! Cuộc sống ở chiến trường có những điều mà bây giờ lớp trẻ không thể hiểu nổi: “Sau bữa trưa chỉ có cơm với muối, chúng tôi rửa bát bằng cách sục ca nhôm vào cát rồi chùi. Ở đây thì lấy đâu ra nước mà rửa bát. Có nước ở hố bom cách đó vài chục mét, nhưng ra lấy lại sợ bị pháo kích”…

Quảng Trị năm 1972 là đất của bom pháo và chết chóc. Ðụng vào đâu cũng thấy xác chết, cả ta lẫn địch. Tiểu đoàn 3 của anh đã hai lần bị xóa sổ trong vòng ba tháng. Nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm, một chiến sĩ Quảng Trị đã nhớ lại như sau: “Cứ sáng dậy mở mắt ra là thấy toàn lính mới”!

Chỉ có tinh thần chiến đấu kiên cường của người chiến sĩ là không chết. Ðây là một đoạn Nguyễn Quang Vinh viết về những người lính trẻ: “Từ cửa hầm đối diện, Lâm Thành xả một tràng AK hạ gục tên địch vừa bắn Chí Thành. Nhưng lúc này bốn bề đều có địch. Hai chiến sĩ trẻ của C11, là Lâm Thành và Tường “Hải Phòng”, đã dựa lưng vào nhau, chĩa súng AK ra hai phía bắn như điên. Mặc cho máu đang ròng chảy trên mặt một người và máu thấm đẫm vạt sườn người kia, hai anh vẫn bắn không ngừng, bắn mãi… Cách đó khoảng 100m, Tiểu đội trưởng Quế “Khương Trung” mang khẩu DKZ82 ra định lắp vào giá súng, nhưng không kịp. Thấy xe tăng địch đang rầm rầm xông đến, Quế hô chiến sĩ Quỳnh “Thái Bình” đem đạn ra ngay, nạp vào súng. Rồi không cần giá súng, Quế vác nòng khẩu DKZ82 lên vai, nhằm thẳng chiếc M48 đang chạy xế trước mặt bóp cò. Một quầng lửa da cam cùng tiếng nổ chói óc vang lên, chiếc xe tăng bốc cháy ngùn ngụt, không một tên địch nào sống sót”…

Mọi sự thật của chiến tranh đều được phơi bày một cách trần trụi. Cả dũng cảm và hèn nhát. Không ít cán bộ, chiến sĩ đã thoái lui, không đập bệnh cũng đảo ngũ. Nhưng trên tất cả là bản anh hùng ca của tuổi trẻ, từ bộ đội chủ lực đến giao liên, du kích. Tác giả, trong hoàn cảnh cụ thể của mình đã có những trang viết xúc động, rất đáng tự hào về tuổi trẻ Hà Nội trong những ngày kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong đó có chính tác giả.

Văn học gần đây có khuynh hướng thiên về ký sự, mô tả sự thật như nó vốn có. Sự thật cuộc chiến đấu Quảng Trị năm 1972 hào hùng và tiêu biểu đến nỗi, không cần tới hư cấu, và bởi không cần đến hư cấu nên lay động sâu xa tới người đọc. Cuốn sách này của Nguyễn Quang Vinh không chỉ có giá trị lịch sử mà còn góp phần khẳng định một khuynh hướng mới có nhiều triển vọng trong đời sống văn học hiện nay.

Nguyễn Quang Vinh kể lại những ngày tháng của các anh ở Quảng Trị không để làm văn chương; mà là nén hương lòng tưởng niệm và tri ân những đồng đội đã hy sinh vì Tổ quốc, hy sinh một cách cao cả và đau xót:

Thế hệ chúng con đi như gió thổi

Quân phục xanh đồng sắc với chân trời

Lúc ngã vào lòng đất vẫn con trai…

Khép lại trang cuối cùng của cuốn sách, tôi hết sức khâm phục và biết ơn những đồng đội ở Quảng Trị; nhận thấy ở Nguyễn Quang Vinh một nhà văn – chiến sĩ. Dù anh không viết gì nữa, tôi tin anh đã có một chỗ đứng trên văn đàn; cuốn sách “Quảng Trị 1972” sẽ ghi được dấu ấn đặc biệt trong lòng bạn đọc.

Những năm sau đóː kinh doanh nhà hàng, hoạt động từ thiện và đấu tranh dân chủ

Sau khi về hưu từ năm 1994, hãnh phim Media Asia Group đã giành quyền phát hành độc quyền các bộ phim của hãng In-Gear của ông dưới dạng DVD. Từ cuối thập niên 90, Đặng Quang Vinh đã bắt đầu theo đuổi sự nghiệp thứ hai của mình là kinh doanh nhà hàng. Ngoài ra, ông còn là nhà hoạt động từ thiện tích cực ở cả Hồng Kông lẫn Đại Lục với tư cách cá nhân cũng như thành viên của Hiệp hội từ thiện Rotarian. Theo cuốn hồi ký của nhà hoạt động dân chủ Szeto Wah, Đặng Quang Vinh là người hỗ trợ về mặt tài chính cũng như vật chất đáng kể để những sinh viên hoạt động chính trị có thể trốn thoát khỏi Trung Quốc từ sau sự kiện Thảm sát Thiên An Môn. Szeto từng nói Đặng Quang Vinh đã dùng ảnh hưởng của mình tại Ma Cao để giúp đỡ phong trào hoạt động dân chủ Operation Yellowbird (Hoàng Tước hành động) và cá nhân cũng bỏ tài chính ra giúp đỡ để mọi người có thể tiết kiệm thời gian, nhưng ông chưa từng công khai mà bí mật giúp đỡ hoạt động này[1].

Thập niên 80-90ː Siêu sao phim hành động, nhà sản xuất lừng danh

Năm 1987, Đặng Quang Vinh thành lập một hãnh phim khác, In-Gear Film Production Co., Ltd., cùng với anh trai của ông là nhà sản xuất Rover Tang, tiếp tục với vai trò diễn viên chính kiêm nhà sản xuất và xây dựng hình ảnh siêu sao hành động vô cùng thành công. Các tác phẩm gây tiếng vang của ông trong thập niên 80 -90 bao gồm ː Hoàng Họa (1984), Giang hồ long hổ đấu (1987), Tái chiến giang hồ (1990), Long đằng tứ hải (1992), Gangland Odyssey (1992) và Hành động Hắc Báo (1993). Ông cũng sản xuất hai bộ phim do Vương Gia Vệ đạo diễn là Vượng Giác các môn(1988) và A Phí chính truyện (1991). Cũng kể từ thập niên 80 thù lao ông tăng lên đến hơn 700,000 đô la Hồng Kông cho mỗi phim[1].

Giữa thập niên 80, Vương Gia Vệ đã trở thành đạo diễn kiêm biên kịch cho hãng Wing-Scope và In-Gear. Ông đã viết kịch bản cho các phim Tái chiến giang hồ và Giang hồ long hổ đấu, cả hai phim này đều là do Đặng Quang Vinh đóng chính. Phong cách làm phim nghệ thuật hoài niệm của Vương Gia Vệ đã được hình thành trong quá trình làm việc với Đặng Quang Vinh, ông đã đầu tư vào bộ phim đầu tiên của Vương Gia Vệ là Vượng Giác các môn. Sự nghiệp của Vương Gia Vệ cất cánh bay cao khi ông đạo diễn phim A Phi chính truyện năm 1990 mặc dù Đặng Quang Vinh đã thua lỗ hànhg triệu đô la để đầu tư vào bộ phim[1].