VTV.vn - Sau 2 năm tạm dừng vì COVID-19, Hội chợ Thủy sản Bắc Mỹ được mở lại. Đây là hội chợ chuyên ngành về thủy sản. Tại hội chợ năm nay, Việt Nam có 13 doanh nghiệp tham gia.
VTV.vn - Sau 2 năm tạm dừng vì COVID-19, Hội chợ Thủy sản Bắc Mỹ được mở lại. Đây là hội chợ chuyên ngành về thủy sản. Tại hội chợ năm nay, Việt Nam có 13 doanh nghiệp tham gia.
(PLVN) - Mỹ luôn là đối tác nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam. Các mặt hàng thủy sản xuất khẩu (XK) chủ lực sang Mỹ đều có doanh số tăng đột phá sau 10 năm.
Theo bà Lê Hằng, Giám đốc truyền thông của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam, Mỹ luôn là đối tác nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam. Năm 2022, XK thủy sản của Việt Nam sang Mỹ đạt kỷ lục 2,15 tỷ USD, tăng 80% so với cách đó 10 năm, trước thời điểm Việt Nam - Hoa Kỳ xác lập quan hệ Đối tác toàn diện vào năm 2013.
Các mặt hàng thủy sản XK chủ lực sang Mỹ đều có doanh số tăng đột phá sau 10 năm. Riêng XK tôm tăng 77% từ 454 triệu USD năm 2012 lên 807 triệu USD năm 2022, trong đó XK tôm chạm mức đỉnh trên 1 tỷ USD năm 2021; cá tra tăng 50% từ 359 triệu USD lên 537 triệu USD, cá ngừ tăng gấp đôi từ 244 triệu USD lên 489 triệu USD. Ba ngành hàng này chiếm trên 80% kim ngạch XK thủy sản sang Mỹ.
Ngoài ra, Mỹ gia tăng nhập khẩu nhiều sản phẩm thủy sản khác từ Việt Nam như cua, ghẹ, ngao, các loài cá biển, cá nước ngọt khác.
8 tháng năm 2023, XK thủy sản Việt Nam sang Mỹ đạt trên 1 tỷ USD, giảm 39% so với cùng kỳ năm 2022, do khó khăn chung của thị trường thế giới như lạm phát, giá trung bình XK giảm. Riêng với thủy sản, vấn đề tồn kho của các nhà nhập khẩu Mỹ từ nửa cuối năm 2022 cũng là một nguyên nhân chính khiến cho nhập khẩu của thị trường chậm lại, nhất là 2 mặt hàng chủ lực là tôm và cá tra. Do vậy, tới hết tháng 8/2023, XK tôm sang Mỹ giảm 30%, XK cá tra giảm 58% so với cùng kỳ năm ngoái.
Không chỉ là thị trường nhập khẩu thủy sản số 1 của Việt Nam, Mỹ đồng thời cũng là đối tác cung cấp một số mặt hàng hải thủy sản quan trọng cho thị trường Việt Nam.
Kim ngạch XK thủy sản của Mỹ sang Việt Nam khoảng trên 60 triệu USD mỗi năm, với những mặt hàng chính gồm cá hồi, cá trích, cá bơn, cá minh thái, cá tuyết... Phần lớn các hải sản Việt Nam được các đối tác Mỹ XK sang Việt Nam để gia công, chế biến và XK trở lại thị trường này. Hoạt động này cũng mang thêm doanh thu cho doanh nghiệp Việt, tạo việc làm ổn định cho công nhân và tận dụng được năng lực và công suất chế biến của các nhà máy trong nước.
Theo bà Lê Hằng, Hoa Kỳ đang và sẽ tiếp tục là đối tác chiến lược hàng đầu của thủy sản Việt Nam bởi vị thế của một cường quốc kinh tế lớn có dân số lớn thứ 3 thế giới và có tỷ lệ dân thành thị ngày càng gia tăng, đặc biệt tăng trưởng số lượng di dân ở đất nước này được dự báo ngày càng cao.
Những đặc tính của thị trường này sẽ mang lại cơ hội tăng thị phần cho thủy sản Việt Nam, không chỉ phát triển các sản phẩm XK truyền thống mà cả phân khúc sản phẩm giá trị gia tăng, chế biến sẵn, phù hợp cho các gia đình thành thị, cũng như các chủng loại sản phẩm có giá phù hợp cho tầng lớp thu nhập trung bình.
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tháng 12/2023, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Canada đạt 21,8 triệu USD, tăng 14,2% so với tháng 12/2022, là tháng tăng thứ 4 liên tiếp so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, do xuất khẩu đã liên tục giảm mạnh trong các tháng đầu năm 2023 nên tính chung cả năm 2023, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Canada vẫn giảm 38,5% so với năm 2022.
Cá ngừ vẫn là đối tượng thủy sản nhiều triển vọng tại Canada. Ảnh: ST
Theo Ibisworld, doanh thu của ngành thủy sản Canada đã giảm trung bình 1,0%/năm trong 5 năm qua, ước tính đạt khoảng 6,1 tỷ CAD (tương đương 4,5 tỷ USD) vào năm 2023. Tiêu dùng thủy sản của Canada giảm do người tiêu dùng chuyển từ các sản phẩm hải sản sang thịt bò, thịt gà và các mặt hàng protein khác khi kinh tế gặp khó khăn. Người tiêu dùng có xu hướng chuyển sang sử dụng các nguồn protein có giá cả thấp hơn so với thủy sản. Mặc dù không phải tất cả các sản phẩm thủy sản đều đắt tiền, nhưng nhiều sản phẩm đắt hơn các mặt hàng chủ yếu như thịt gà. Tiêu dùng giảm khiến nhập khẩu thủy sản của Canada giảm. Theo số liệu thống kê của Cơ quan Hải quan Canada, trong 10 tháng năm 2023, nhập khẩu thủy sản của nước này đạt 2,48 tỷ USD, giảm 18,2% so với cùng kỳ năm 2022. Việt Nam là thị trường cung cấp thủy sản lớn thứ 7 cho Canada trong 10 tháng đầu năm 2023 với tỷ trọng chiếm 7,17%.
Cơ cấu mặt hàng thủy sản xuất khẩu sang thị trường Canada có nhiều thay đổi khi tỷ trọng tôm đông lạnh và cá ngừ đông lạnh giảm, trong khi tỷ trọng cá tra, basa và cá ngừ đóng hộp tăng. Điều này cho thấy kinh tế khó khăn, xuất khẩu các mặt hàng thủy sản có giá cao sang Canada giảm mạnh hơn so với các mặt hàng có mức giá thấp hơn. Theo đó, trị giá xuất khẩu tôm đông lạnh giảm 47,9%, xuất khẩu cá ngừ đông lạnh giảm 51%, trong khi xuất khẩu cá tra giảm thấp hơn, giảm 36,2%, cá ngừ đóng hộp lại tăng 7,5%.
Trong các mặt hàng thủy sản xuất khẩu, cá ngừ là mặt hàng xuất khẩu rất tiềm năng sang thị trường Canada. Theo VASEP, chỉ tính riêng tháng 11/2023, giá trị xuất khẩu cá ngừ sang thị trường Canada tăng 117%. Con số này đã góp phần nâng tổng giá trị xuất khẩu sang Canada trong 11 tháng đầu năm 2023 lên gần 31 triệu USD, tuy nhiên giảm 37% so với cùng kỳ năm 2022.
Theo số liệu của Trung tâm Thương mại Thế giới (ITC), trong 9 tháng đầu năm 2023 nhập khẩu cá ngừ của Canada từ các nước đạt gần 154 triệu USD. Việt Nam đứng vị trí thứ 3, với thị phần 12%, sau Thái Lan và Italy.
Trong số các sản phẩm cá ngừ, Việt Nam cung cấp chủ yếu thịt/loin cá ngừ đông lạnh và cá ngừ đóng hộp cho thị trường Canada, với tỷ trọng lần lượt là 54% và 40%. VASEP nhận định năm 2023, xuất khẩu 2 nhóm sản phẩm này của Việt Nam sang Canada đều giảm so với năm 2022.
Trong những năm gần đây, tỷ trong xuất khẩu các sản phẩm loin cá ngừ hấp đông lạnh trong tổng kim ngạch xuất khẩu cá ngừ ngày càng tăng. Mỹ, Thái Lan và Italy lần lượt là 3 thị trường nhập khẩu nhiều nhất trong số 29 thị trường nhập khẩu nhóm sản phẩm này của Việt Nam trong năm 2023, chiếm hơn 60% tổng kim ngạch.
Canada là thị trường nhập khẩu cá ngừ lớn thứ 12 trên thế giới trong năm 2022. Kim ngạch nhập khẩu của thị trường này đạt hơn 272 triệu USD, tăng 40% so với năm 2021. Với mức tăng trưởng này, Canada được đánh giá là thị trường cá ngừ tiềm năng cho Việt Nam nhất là sau khi hiệp định Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) có hiệu lực. Tuy nhiên, dự kiến xuất khẩu cá ngừ sang thị trường Canada sẽ vẫn chưa thể phục hồi hoàn toàn trong những tháng tới, nhất là trong bối cảnh nợ tín dụng tiêu dùng của người Canada ngày càng tăng cao, người dân sẽ thắt chặt chi tiêu hơn.
Ngọc Diệp (Theo Cục Xuất Nhập khẩu, Bộ Công thương)
EU là thị trường nhập khẩu thủy sản (NKTS) lớn nhất của Việt Nam. Nhưng từ năm 2019, vị trí này đã hạ xuống thứ 4 (sau Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc). Về phía EU, Việt Nam là thị trường cung cấp thủy sản đứng thứ hai trong khu vực châu Á, chỉ xếp sau Trung Quốc. Nhu cầu NKTS của EU là rất lớn, trên 50 tỷ USD/năm. Vì vậy, EU vẫn là một trong những thị trường lớn, quan trọng đối với xuất khẩu thủy sản (XKTS) Việt Nam trong những năm gần đây và sẽ tiếp tục là thị trường tiềm năng trong những năm tới.
Tình hình thương mại thủy sản Việt Nam – EU
Trong bốn năm từ 2015 – 2018, EU luôn là thị trường top đầu, cho đến năm 2019, vị trí này đã hạ xuống thứ tư với mức giảm 11,9% so với năm 2018.Anh, Hà Lan, Đức, Italy và Bỉ là năm thị trường tiềm năng nhất trong khối này.Cuối tháng 1 năm 2020, Anh chính thức rời khỏi Liên minh châu Âu khiến cho giá trị nhập khẩu thủy sản chung của cả khối sụt giảm đáng kể, tuy nhiên EU vẫn giữ vị trí trong top 5 các thị trường nhập khẩu thủy sản của Việt Nam. Theo số liệu của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu hải sản sang EU giảm tới 24% trong giai đoạn từ 2017 đến 2020. Hiện mỗi năm giá trị xuất khẩu hải sản Việt Nam vào EU không quá 400 triệu USD.
Bảng 1. Xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang EU từ 2015 – 2019 theo từng mặt hàng (Đơn vị: Tỷ USD)
Nguồn: Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP)
Nhìn số liệu thống kê trên, ta thấy mặt hàng chủ lực xuất khẩu vào EU là Tôm EU là thị trường nhập khẩu tôm lớn của Việt Nam. Năm 2015, EU xếp thứ 3 về nhập khẩu tôm của Việt Nam, sau Mỹ và Nhật Bản. Năm 2016, EU vươn lên vị trí thứ 2 sau Mỹ và trở thành thị trường nhập khẩu tôm lớn nhất của Việt Nam năm 2017. Năm 2019, EU đứng đầu về nhập khẩu tôm của Việt Nam, chiếm 21 %5 tổng giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam đi các thị trường. Như vậy, EU duy trì vị trí số 1 về nhập khẩu tôm của Việt Nam từ năm 2017 đến năm 2019.
Hình 2. Nhập khẩu tôm của EU giai đoạn 2015 – 2019
Nguồn: Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP)
Trung bình mỗi năm, xuất khẩu tôm Việt Nam sang EU đạt khoảng trên 0,7 tỷ USD. Trong 5 năm (2015-2019), xuất khẩu sang EU tăng từ 0,55 tỷ USD năm 2015 lên 0,69 tỷ USD năm 2019. Xuất khẩu tôm sang EU giai đoạn 5 năm này đạt đỉnh vào năm 2017 với 0,86 tỷ USD. Xuất khẩu tôm Việt Nam sang EU hai năm gần đây (2018- 2019) có xu hướng giảm.
Trong thời gian 2015 – 2019, thị trường EU luôn đứng trong top 3 thị trường xuất khẩu cá tra lớn nhất của Việt Nam. Trong đó, ba thị trường nhập khẩu cá tra lớn nhất từ Việt Nam của khu vực EU là Hà Lan, Anh và Đức. Trong đó Hà Lan là thị trường dẫn đầu trong 5 năm qua. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tới Hà Lan năm 2016 đạt 204,1 triệu USD, tăng 22% so với năm 2015 và lần lượt đạt 307,4 triệu USD vào năm 2017, 296 triệu USD năm 2018, 215 triệu USD năm 2019. Trong đó, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tới Hà Lan giảm liên tiếp trong 2 năm 2018 và 2019 là do chịu ảnh hưởng bởi “thẻ vàng” khiến cho xuất khẩu thủy sản khai thác tới EU giảm mạnh.
Sau khi EVFTA có hiệu lực khi xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tới thị trường Hà Lan trong năm 2020, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tới Hà Lan tăng nhẹ so với năm 2019 cho dù dịch Covid-19 tác động xấu tới nhu cầu nhập khẩu thủy sản của Hà Lan. Nguyên nhân chính là do xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tới Hà Lan giai đoạn cuối năm 2020 đã bứt phá khi EVFTA có hiệu lực từ ngày 1/8/2020. 6 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tới Hà Lan tăng 7,4% về lượng và tăng 4,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020, đạt 19,9 nghìn tấn với trị giá 99,2 triệu USD, chiếm 19,09% về lượng và chiếm 20,45% về trị giá xuất khẩu thủy sản tới EU, là thị trường có tiêu thụ thủy sản lớn nhất của Việt Nam tại EU.
Tại thị trường Đức, tôm các loại chiếm 50,3% về lượng và chiếm 72,9% về trị giá; cá ngừ các loại chiếm 25,2% về lượng và chiếm 14% về trị giá; cá tra, basa chiếm 15,8% về lượng và chiếm 7,1% về trị giá trong tổng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Đức trong 6 tháng đầu năm 2021. Riêng trong 6 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Đức đạt 14,6 nghìn tấn, trị giá 91,9 triệu USD, tăng 15,7% về lượng và tăng 18,9% về trị giá so với 6 tháng đầu năm 2020.
Trước đó, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Đức tăng trong năm 2017 và 2018, nhưng giảm trong 2 năm tiếp theo 2019 và 2020 do nhóm hàng thủy sản khai thác của Việt Nam xuất khẩu tới EU chịu ảnh hưởng bởi “thẻ vàng” IUU.
Đến nay, nhờ EVFTA, nhiều mặt hàng thế mạnh của Việt Nam đã tận dụng cơ hội để xuất khẩu sang Đức như Tôm đông lạnh thuộc giống “Penaeus”, hun khói, còn nguyên vỏ hay không, bao gồm cả tôm còn vỏ, nấu chín bằng cách hấp hoặc đun sôi trong nước… đều có kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này tăng.
Tiêu thụ thuỷ sản bình quân đầu người của Đức trong năm 2020 khoảng gần 14kg/người/năm, mặc dù mức tiêu thụ thuỷ sản này không cao so với bình quân tiêu thụ thuỷ sản thế giới, nhưng ngày càng nhiều người dân Đức nhận thấy việc tiêu thụ thuỷ sản rất có lợi cho sức khoẻ và lựa chọn tiêu dùng thuỷ sản cũng tiện dụng như các sản phẩm thịt khác. Đức với dân số 83,8 triệu người và là quốc gia phát triển nhất trong Liên minh châu Âu, nên nhu cầu nhập khẩu thủy sản của Đức sẽ tăng trong thời gian tới, do nhu cầu tiêu dùng và nhập khẩu của Đức tăng. Do đó, các doanh nghiệp thủy sản của Việt Nam sẽ có cơ hội tăng giá trị xuất khẩu sang Đức và sẽ tận dụng tốt Hiệp định EVFTA với những sản phẩm xuất khẩu thủy sản chủ lực mà Việt Nam có lợi thế như tôm, cá ngừ...
Bảng 3. Xuất khẩu cá tra sang EU, 2015-2019 (Đơn vị: Tỷ USD)
Nguồn: Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP)
Trong 5 năm (2015 - 2019), giá trị xuất khẩu cá tra của Việt Nam sang EU giảm 17,4% từ 0,29 tỷ USD (2015) xuống còn 0,24 tỷ USD (2019).
Mặc dù, EU là thị trường nhập khẩu lớn và truyền thống của cá tra Việt Nam, nhưng giá xuất khẩu cá tra trung bình sang thị trường này không ổn định và đã giảm dần từ 2015 - 2019. Hai nhóm sản phẩm xuất khẩu cá tra lớn nhất sang nước này là: cá tra fillet đông lạnh và cá tra fillet cắt tẩm gia vị đông như: cá tra fillet cắt miếng tẩm bột, cá tra cuộn cà chua đông lạnh, cá tra cắt strip tẩm tempura, cá tra fillet tẩm xốt (tẩm Miso) đông lạnh,..
Những thuận lợi và khó khăn đối với hoạt động XKTS vào thị trường EU
Với tổng dân số 447 triệu dân và thu nhập bình quân đầu người 34,843 USD/năm (tính đến năm 2019), Liên minh châu Âu (EU) là một thị trường tiêu dùng thật sự hấp dẫn. Riêng đối với mặt hàng thủy sản, thị trường này càng có sức hút, khi EU là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất thế giới trong nhiều năm qua, với kim ngạch nhập khẩu thủy sản năm 2019 từ các nước bên ngoài khối đạt 30,86 tỷ USD.
Việt Nam có nguồn nguyên liệu lớn và tương đối ổn định, đăc biệt có tiềm năng tiếp tục phát triển diện tích nuôi biển, nuôi sinh thái các giống loài thuỷ hải sản tạo nguồn cung lớn; Sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam đa dạng và có ưu thế về sản lượng (đặc biệt là tôm sú và cá tra); đồng thời vẫn còn tiềm năng đa dạng hoá các sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu, nâng cao giá trị gia tăng; Lực lượng lao động ngành thuỷ sản của Việt Nam lớn, tương đối lành nghề và có kinh nghiệm sản xuất; Công nghệ chế biến thuỷ sản đạt trình độ tiên tiến, đáp ứng yêu cầu khắt khe của khách hàng; nhiều cơ sở đã kiểm soát được hệ thống chuỗi sản xuất, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm theo các tiêu chuẩn quốc tế; Các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam có nhiều kinh nghiệm trong đáp ứng các yêu cầu, thủ tục của thị trường xuất khẩu cũng như tiếp cận hệ thống phân phối ở các thị trường (kể cả các thị trường khó tính nhất)
Tuy nhiên, Chuỗi cung ứng thủy sản ở Việt Nam còn nhiều hạn chế, đặc biệt là trong khâu đầu vào. Mối liên hệ giữa các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu và giữa cơ sở sản xuất ban đầu (các hộ khai thác, nuôi trồng) chưa hiệu quả, còn qua nhiều khâu trung gian; nguồn nguyên liệu không ổn định, phân tán và sản lượng quy mô nhỏ; số lượng doanh nghiệp tạo vùng nguyên liệu với chuỗi cung ứng kép kín từ khâu sản xuất con giống, nuôi trồng đến sản xuất thành phẩm có tăng trưởng nhưng chưa nhiều. Vì nguồn cung trong nước không đủ để đáp ứng các đơn hàng xuất khẩu, nên trong thời gian qua có tình trạng một số doanh nghiệp thủy sản của Việt Nam phải nhập khẩu nguyên liệu thủy sản từ các nước, đặc biệt là từ Ấn Độ, để tái xuất sang các thị trường khác, trong đó có EU. Năm 2019, Việt Nam xuất khẩu thủy sản 8,58 tỷ USD nhưng ngược lại, Việt Nam cũng đã nhập khẩu thủy sản đến 1,78 tỷ USD, trong đó, nhập khẩu từ Ấn Độ chiếm 11.3%, và từ ASEAN chiếm 8%. Nếu tình trạng trên không được khắc phục, sẽ dễ dẫn đến nhiều hệ lụy cho ngành xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Ủy ban Châu Âu (EC) áp thẻ vàng cảnh cáo bởi các hành vi khai thác đánh bắt bất hợp pháp IUU Ngày 23/10/2017, ngành Thủy sản Việt Nam bị EC áp thẻ vàng cảnh cáo bởi các hành vi khai thác đánh bắt bất hợp pháp IUU.
Kể từ khi Việt Nam bị áp dụng "thẻ vàng" đến nay, phía EC đã 2 lần sang kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện các khuyến nghị vào năm 2018 và 2019. Tuy nhiên, vẫn chưa thể nói trước điều gì về triển vọng được EU gỡ thẻ vàng. Tình huống xấu nhất là EU sẽ áp dụng thẻ đỏ, đồng nghĩa với việc toàn bộ thủy sản Việt Nam sẽ bị cấm xuất khẩu vào EU.
Dịch covid-19 tác động đến tình hình xuất khẩu thủy sản sang các thị trường khác, trong đó có EU. Dịch Covid-19 bùng phát mạnh và diễn biến phức tạp trên toàn cầu đã khiến cho tiêu thụ thủy sản giảm, xu hướng tiêu dùng thay đổi, đơn đặt hàng giảm từ 35% đến 50%. Cùng với đó, giãn cách xã hội khiến sản xuất trong nước và thương mại quốc tế đình trệ, doanh nghiệp bị thiếu nguyên liệu chế biến, vận tải và thanh toán khó khăn dẫn đến thiếu vốn để duy trì và phục hồi hoạt động.
Giải pháp đẩy mạnh XKTS vào thị trường EU
Từ những phân tích trên, để đẩy mạnh hoạt động XKTS vào thị trường EU, doanh nghiệp cần chú ý nâng cao chất lượng sản phẩm thủy sản xuất khẩu, đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm. Thị trường EU vẫn là một thị trường khó tính với những đòi hỏi khắt khe về chất lượng sản phẩm nên doanh nghiệp cần bám sát các kết quả nghiên cứu thị trường về thị hiếu người tiêu dùng, các yếu tố liên quan đến sức khỏe con người, từ đó chào bán sản phẩm an toàn cho người sử dụng với mẫu mã, chất lượng cải tiến, đa tiện ích, giá cạnh tranh. Nắm vững và hiểu rõ quy tắc xuất xứ của sản phẩm. Mặt hàng thủy sản Việt Nam được coi là có xuất xứ thuần túy nếu như các sản phẩm thủy sản được sinh ra và nuôi lớn tại các trang trại thủy sản trong nước hoặc thu được qua quá trình đánh bắt trong lãnh hải mà Việt Nam có quyền khai thác độc quyền. Doanh nghiệp cần phối hợp tốt với những nhà nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản trong việc tuân thủ quy tắc xuất xứ hàng hóa. Doanh nghiệp cần chú ý thu mua nguyên liệu hải sản được khai thác hợp pháp, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, không thu mua hải sản của các ngư dân vi phạm, từ những hoạt động khai thác không có giấy phép, không có nhật ký và không báo cáo theo quy định hoặc khai thác bằng ngư cụ bị cấm. Nỗ lực tận dụng EVFTA, sẽ giảm thiểu các hàng rào thương mại bất hợp lý, tăng tính công khai, minh bạch, có thể dự báo khi triển khai các biện pháp phòng vệ thương mại, kiểm dịch động thực vật, cũng như rào kỹ thuật. Vì vậy, các doanh nghiệp có thể tận dụng những cam kết này để tránh hoặc giảm thiểu nguy cơ đối mặt với các rào cản thương mại phi thuế mà EU đang và sẽ áp dụng với thủy sản nhập khẩu nói chung và thủy sản từ Việt Nam nói riêng.
Xuất khẩu tôm Việt Nam sang thị trường Trung Quốc & Hồng Kông (Trung Quốc) tiếp tục xu hướng phục hồi trong tháng 8 với mức tăng trưởng 2 con số so với cùng kỳ.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan Trung Quốc, trong 8 tháng đầu năm 2024, Trung Quốc đã nhập khẩu 610.249 tấn tôm nước ấm đông lạnh, trị giá 2,95 tỷ USD. Con số này giảm 10% về khối lượng và 21% về giá trị so với cùng kỳ năm 2023.
Cụ thể, Ecuador là nhà cung cấp tôm lớn nhất của Trung Quốc ghi nhận giảm 20% về giá trị xuất khẩu, xuống còn hơn 2 tỷ USD. Tuy nhiên, Ecuador vẫn chiếm 70% tổng lượng tôm nhập khẩu của Trung Quốc, đạt 451.366 tấn, giảm 7% so với cùng kỳ năm trước.
Trong năm 2024, giá tôm nhập khẩu của Trung Quốc giảm mạnh đã gây ra khó khăn cho các nhà cung cấp tôm giá rẻ từ Ecuador. Các doanh nghiệp nhập khẩu tôm của Trung Quốc cũng gặp khó khăn khi phải chịu thua lỗ do phải bán tôm với giá thấp hơn giá mua vào.
Tình trạng biến động giá tôm và thay đổi tỷ giá hối đoái nhân dân tệ - USD đã làm phức tạp thêm tình hình, ngăn cản các nhà cung cấp Ecuador phát triển các thương hiệu mạnh để gia tăng sức hấp dẫn.
Sau Ecuador, Ấn Độ duy trì vị thế là nhà cung cấp tôm lớn thứ hai cho Trung Quốc với 94.781 tấn tôm, trị giá 485 triệu USD, tăng 9% về khối lượng dù giá trung bình giảm 9%, xuống còn 5,12 USD/kg.
Trong khi đó, Thái Lan nhà cung cấp lớn thứ ba gặp khó khăn trong việc duy trì doanh số, với lượng nhập khẩu giảm 18% về khối lượng và 22% về giá trị. Trung Quốc chỉ nhập khẩu 14.331 tấn tôm từ Thái Lan, trị giá 140 triệu USD.
Các quốc gia khác như Arab Saudi và Argentina cũng chứng kiến mức giảm mạnh, với giá trị nhập khẩu tôm lần lượt giảm 21% và 50%. Lượng nhập khẩu từ Indonesia cũng giảm đáng kể do nhu cầu của Trung Quốc suy yếu.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản (VASEP) cho biết, dự báo cho cả năm 2024, lượng tôm nhập khẩu của Trung Quốc có thể giảm 11%, chỉ còn 933.083 tấn, thấp hơn mức hơn 1 triệu tấn của năm 2023. Nguyên nhân chính đến từ tình hình kinh tế Trung Quốc vẫn gặp khó khăn và giá tôm trong nước ở mức thấp, khiến các nhà nhập khẩu thận trọng hơn.
Theo số liệu của Hải quan Việt Nam, xuất khẩu tôm Việt Nam sang thị trường Trung Quốc và Hồng Kông (Trung Quốc) tiếp tục xu hướng phục hồi trong tháng 8 với mức tăng trưởng 2 con số so với cùng kỳ năm ngoái. Lũy kế 8 tháng, xuất khẩu tôm sang thị trường này đạt 477 triệu USD, tăng 21% so với cùng kỳ năm ngoái.
Xuất khẩu tôm Việt Nam sang Trung Quốc trong 8 tháng năm nay chỉ ghi nhận giảm trong tháng 5, phục hồi tăng trở lại từ tháng 6, với tốc độ tăng trưởng tốt trong tháng 7 và 8.
Dẫn số liệu của Hải quan Trung Quốc, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu tôm vào Trung Quốc từ Việt Nam trong tháng 8 năm nay cũng ghi nhận tích cực hơn nhập khẩu tôm từ Ecuador.
Xuất khẩu tôm Việt Nam sang Trung Quốc những tháng cuối năm nay kỳ vọng vào sự phục hồi nhu cầu nhập khẩu tôm của thị trường này để phục vụ kỳ nghỉ lễ Quốc khánh (1 - 7/10) ở nước này. Bên cạnh đó, sản lượng tôm nội địa trong những tháng tới có khả năng bị ảnh hưởng bởi sự gia tăng của dịch bệnh sau các cơn bão gần đây.